CHIA SẺ SUY TƯ

Hợp tác liên tôn: chọn lựa khó khăn hay hành trình tự nhiên?

Có khi người ta nghĩ rằng hợp tác giữa các tôn giáo là điều khó khăn, phức tạp và đầy rào cản. Nhưng cũng có thể suy tư ngược lại: liệu đó có phải là con đường tự nhiên, vì chính đời sống con người vốn đòi hỏi việc liên đới? Bài viết gợi mở cách nhìn rằng hợp tác liên tôn không chỉ là giải pháp cho khủng hoảng, mà còn là bản chất nhân loại. Bài viết có ba ý chính: sự cần thiết phải hợp tác; tính khả thi của việc hợp tác; và ánh sáng nơi chân trời hợp tác.

  1. Sự cần thiết của việc hợp tác

Hiện tượng gia tăng phụ thuộc lẫn nhau trong xã hội đương đại khiến việc hợp tác trở thành điều kiện tiên quyết của hiệu năng tập thể. Khi hợp tác là nguyên tắc chi phối các lĩnh vực kinh tế, khoa học, y tế và chính trị, thì tôn giáo dưới tư cách thể chế xã hội và tổ chức hành động cũng phải được hiểu và tổ chức theo logic hợp tác để duy trì phẩm tính đạo đức, khả năng can dự công cộng và hiệu quả mục vụ.

 

Hợp tác trở thành nguyên tắc nền tảng của đời sống xã hội đương đại. Sự phức tạp của các vấn đề mang tính toàn cầu khiến bất kỳ nỗ lực đơn ngành hay đơn thể chế nào đều thiếu tính khả thi. Các hệ thống kiến thức liên ngành, chuỗi cung ứng xuyên quốc gia và mạng lưới phản ứng khủng hoảng đều vận hành dựa trên chia sẻ thông tin, phân chia trách nhiệm và phối hợp hành động. Tính liên kết này không phải là lựa chọn tùy nghi mà là điều kiện hiển nhiên để đạt tới mục tiêu chung.

 

Tôn giáo, xét như một thể chế, cần sự hợp tác. Sự hợp tác này dựa vào chức năng công cộng và tính liên hệ xã hội của tôn giáo. Tôn giáo không chỉ thực hiện chức năng nội bộ (phụng tự, đào tạo, bản sắc) mà còn tham gia vào đời sống công cộng qua công tác từ thiện, giáo dục và soi sáng cho lương tâm xã hội. Để thực hiện các chức năng công cộng ấy một cách hiệu quả và hợp pháp, tôn giáo cần hợp tác với các tổ chức khác, bao gồm chính quyền, tổ chức phi chính phủ và các tôn giáo khác.

 

Kế đến sự hợp tác dựa vào tính liên ngành và khả năng tiếp nhận tri thức: Những thách thức đương đại như dịch bệnh, biến đổi khí hậu và nghèo đói đòi hỏi tri thức khoa học, kinh nghiệm thực hành và hiểu biết đạo đức. Tôn giáo, với tư cách thể chế có nguồn tri thức độc đáo về giá trị và động lực cộng đồng, cần mở kênh hợp tác tri thức để tích hợp chuyên môn khoa học và chính sách công nhằm đưa ra giải pháp toàn diện.

 

Về việc bảo vệ phẩm giá và công bằng xã hội, hợp tác liên tôn và liên khu vực giúp khuếch tán sức mạnh đạo đức, giảm thiểu rủi ro lạm dụng quyền lực tôn giáo và tăng sức mạnh bảo vệ những nhóm dễ bị tổn thương. Thông qua cơ chế hợp tác minh bạch, thể chế tôn giáo củng cố uy tín và khả năng tham dự công bằng trong xã hội đa dạng.

 

Như vậy, hợp tác không đơn thuần là một lựa chọn chiến lược mà còn là hệ quả logic của bối cảnh xã hội đương đại và là yêu cầu nội tại cho tôn giáo khi hoạt động như thể chế công cộng. Để hiện thực hóa khả năng này một cách có phẩm chất, tôn giáo cần chuyển đổi cơ cấu, phát triển năng lực đối thoại liên ngành và thể chế hóa các kênh hợp tác nhằm bảo đảm sứ mạng đạo đức, hiệu năng mục vụ và đóng góp bền vững cho lợi ích chung.

  1. Khả thể hợp tác tôn giáo

Khả thể hợp tác dựa trên trên sự hiểu biết lẫn nhau. Tôn giáo là một hệ thống niềm tin cấu trúc hóa kinh nghiệm về thực tại, do đó mỗi truyền thống mang một mạng lưới khái niệm và ngôn ngữ riêng để diễn giải thế giới và con người. Hợp tác vừa dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau vừa tạo điều kiện cho việc hiểu lẫn nhau được sâu hơn, giảm thiểu hiểu lầm do khác biệt ngôn ngữ, tín lý và biểu tượng, và cho phép tiếp cận những giải thích về nhau dưới ánh sáng lịch sử-văn hóa và nội tại thần học của chính họ.

 

Khi các truyền thống đối thoại và cộng tác, chúng không chỉ tôn trọng nhau mà còn có thể kiểm tra, làm giàu và hiệu chỉnh lẫn nhau về những luận điểm tri thức và đạo đức. Soi sáng lẫn nhau là quá trình phản tỉnh liên-hệ, nơi các niềm tin được thử thách, các giả định được phơi bày, và những chiều kích mới mẻ về nhân vị, công lý và ý nghĩa đời sống được khai triển.

 

Kế đến khả thể hợp tác dựa trên việc cùng mưu cầu hạnh phúc. Tôn giáo không chỉ là hệ tư tưởng mà còn quy định các cách sống nhằm hướng tới hạnh phúc cá nhân và cộng đồng. Hợp tác liên tôn làm cho nỗ lực mưu cầu hạnh phúc trở nên khả tín và bền vững khi các truyền thống chia sẻ mục tiêu nhân bản chung, phối hợp tài lực và thiết kế can thiệp xã hội dựa trên nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người.

 

Một cách cụ thể là cùng nhau giải quyết các vấn đề. Các thách thức đương đại có tính liên ngành và vượt qua phạm vi nội bộ một tôn giáo: nghèo đói, bạo lực, di cư, biến đổi khí hậu, khủng hoảng y tế. Hợp tác cho phép kết hợp nguồn lực, kiến thức khoa học và năng lực tổ chức của nhiều cộng đồng tôn giáo để triển khai giải pháp tổng hợp, phân công trách nhiệm và đánh giá tác động một cách hệ thống.

 

Nền tảng cuối cùng cho khả thể hợp tác và việc tránh tổn thương và giảm căng thẳng. Khác biệt tín lý hoặc thực hành tôn giáo dễ trở thành nguồn xung đột, kỳ thị và tổn thương xã hội khi không có kênh đối thoại và cơ chế giải quyết xung đột. Hợp tác thiết lập các quy tắc ứng xử, tiêu chuẩn tôn trọng và tiến trình tái lập niềm tin, qua đó giảm thiểu khả năng gây tổn thương tinh thần, xã hội và chính trị giữa các cộng đồng tôn giáo.

 

Như thế, việc hợp tác không phải là từ bỏ hay nhượng bộ bản sắc tín lý mà là một phương thức lý trí và luân lý để các hệ thống niềm tin cùng nhau hiểu, soi chiếu, mưu cầu hạnh phúc, giải quyết vấn đề và bảo vệ lẫn nhau khỏi tổn thương, nhờ đó tăng tính khả tín và hiệu năng của tôn giáo trong đời sống xã hội.

  1. Ánh sáng mới nơi chân trời hợp tác

Hiện tượng hợp tác liên tôn có thể được tư duy hữu hiệu khi đặt dưới hai khung diễn thuyết chính: “giao thoa chân trời” của Hans-Georg Gadamer và “vòng tròn thông diễn” của Paul Ricoeur. Gadamer nhấn mạnh rằng hiểu biết phát sinh khi chân trời của kẻ hiểu và chân trời của bản văn (hoặc kẻ khác) có sự giao thoa, tạo nên một chân trời mới phong phú hơn; Ricoeur nêu lên động lực tái thông diễn, hay tính lặp lại của vòng tròn giải thích, nơi tiếp nhận và phản hồi lặp đi lặp lại dẫn đến sự diễn giải sâu hơn. Áp dụng vào tương quan liên tôn, những khái niệm này cung cấp mô hình cho một quá trình mở lòng có phương pháp: không phải đồng hóa, mà là tiếp nhận có phê phán, biến đổi nội tại qua tiếp xúc và gặp gỡ.

 

Chân trời hợp tác liên tôn thúc đẩy tiến trình tự ý thức, phản tỉnh và tính tiếp nhận của mỗi tôn giáo. Bản chất tự ý thức của con người cùng khả năng phản tỉnh làm nên điều kiện tiên nghiệm cho giao tiếp liên tôn. Tự ý thức cho phép chủ thể nhận diện giới hạn tri kiến của mình; phản tỉnh cho phép chủ thể đặt câu hỏi về tiền giả định và sẵn sàng tái cấu trúc niềm tin trước trải nghiệm khác biệt. Trong mô hình thông diễn, tiếp nhận cái mới không là thụ động mà là hành vi thao tác: thẩm định, phiên dịch, nội tại hóa và phản hồi. Nhờ đó, mối quan hệ liên tôn trở thành quá trình nhận thức-đạo đức liên tục, hướng tới sự phong phú chứ không chỉ hòa giải tạm thời.

 

Ánh sáng mới trong chân trời hợp tác liên tôn có được do việc duyệt xét động lực đạo đức và những giới hạn cần nhận diện. Giao thoa chân trời thúc đẩy lòng tri giác đạo đức: khả năng thấy được nhân vị nơi người khác, cảm thông sâu sắc và trách nhiệm chung. Tuy nhiên, cần nhận diện hai loại rủi ro: đồng hóa và ảo tưởng tương đương khi coi mọi khác biệt là tương đương về chân lý. Bảo toàn danh tính tôn giáo song song với cam kết hợp tác đòi hỏi nguyên tắc tôn trọng đa nguyên, minh bạch về mục tiêu và sự khiêm tốn nhận thức.

 

Một vài liên hệ mục vụ dưới ánh sáng của chân trời hợp tác đã lộ diện. Về mục vụ, cần đào tạo khả năng thông diễn, rèn kỹ năng lắng nghe chủ động, và thiết kế kinh nghiệm mục vụ chung dựa trên thực hành hơn là đồng thuận thần học triệt để. Về chính sách xã hội, cần thiết kế việc đối thoại bền vững, cơ chế đánh giá và chia sẻ trách nhiệm, cùng khung pháp lý bảo vệ quyền tự nhiên của từng truyền thống nhưng thúc đẩy hành động cộng sinh trong các lĩnh vực công ích.

 

Nếu coi hợp tác liên tôn như giao thoa chân trời và vòng tròn thông diễn, thì nó vừa là hệ quả tự nhiên của tự-ý-thức và phản tỉnh, vừa là phương pháp có kỷ luật để biến sự tiếp xúc thành phong phú nhận thức và cam kết đạo đức, đồng thời đòi hỏi cơ chế bảo đảm để tránh sự mất mát bản sắc và ảo tưởng tương đương.

Kết luận

Nhu cầu hợp tác hiện hữu rõ rệt trong đời sống xã hội và tôn giáo vì các thách thức đương đại đòi hỏi liên đới và phối hợp hành động. Khả thể hợp tác cũng sẵn có trong bản chất con người nhờ tự ý thức, phản tỉnh và năng lực tiếp nhận lẫn nhau, cùng với các cơ chế tri thức và thể chế có thể xây dựng. Đường hướng tương hợp đã rõ: giao thoa chân trời, vòng tròn thông diễn và thực hành đối thoại cung cấp khung lý thuyết và phương pháp để hợp tác trở nên thấu suốt và bền vững. Cần những bàn tay thực hành để biến ý chí thành hiệu năng cụ thể thông qua đào tạo nhân sự trung gian, thiết chế đối thoại, minh bạch trách nhiệm và chu trình đánh giá liên tục.

 

Lm. Giuse Vũ Uyên Thi, S.J.

Nguồn: dongten.net

Mời góp ý kiến để khích lệ tác giả

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.